Độc tính bán trường diễn là gì? Các công bố khoa học về Độc tính bán trường diễn

Độc tính bán trường diễn (hay còn gọi là độc tính trường trung hoà) là một khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực hóa học. Nó chỉ tính chất hay khả năng của một ...

Độc tính bán trường diễn (hay còn gọi là độc tính trường trung hoà) là một khái niệm được sử dụng trong lĩnh vực hóa học. Nó chỉ tính chất hay khả năng của một chất hoá học gây đau đớn, gây cháy, gây hại hoặc gây tổn thương đến môi trường hoặc con người. Một chất được coi là có độc tính bán trường diễn khi nó có khả năng gây ra hậu quả tiêu cực hoặc gây nguy hiểm nếu tiếp xúc trực tiếp hoặc không trực tiếp với nó. Ngoài ra, độc tính bán trường diễn cũng mô tả mức độ gây hại của một chất và khả năng của nó để tạo ra các phản ứng hóa học không mong muốn.
Độc tính bán trường diễn của một chất hoá học được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố, bao gồm:

1. Tính chất vật lý: Độc tính bán trường diễn phụ thuộc vào tính chất vật lý của chất, chẳng hạn như cấu trúc phân tử, trạng thái (rắn, lỏng, khí), nhiệt độ sôi và độ bay hơi. Các chất có nhiệt độ sôi cao, bay hơi nhanh thường dễ bay vào không khí và gây hại cho môi trường hoặc con người.

2. Độ tan trong nước: Mức độ hòa tan của chất trong nước cũng ảnh hưởng đến độc tính bán trường diễn. Các chất hoá học dễ tan trong nước thường có khả năng gây ô nhiễm tương đối nhanh và kết quả có thể lan rộng trong môi trường.

3. Độc tính sinh học: Sự tương tác của chất hoá học với sinh vật (như vi khuẩn, thực vật, động vật…) cũng có thể xác định độc tính bán trường diễn của nó. Nếu một chất gây tổn thương hoặc có thể giết chết sinh vật trong một môi trường nhất định, nó được coi là có độc tính sinh học cao.

4. Độc tính thế hệ: Một số chất hoá học có thể gây hại cho hệ thống sinh sản, gây tác động lên quá trình sinh sản của các loài sinh vật, từ đó ảnh hưởng đến sự tồn tại và cân bằng của các hệ sinh thái.

5. Độc tính chu kỳ: Độc tính bán trường diễn có thể bị gia tăng hoặc tích tụ trong môi trường hay trong cơ thể của sinh vật. Nếu chất hoá học không thoát ra môi trường hoặc không được loại bỏ, nó có thể tích tụ trong các cơ quan của sinh vật và gây ra tác động hệ thống.

Độc tính bán trường diễn của các chất hoá học được đánh giá bằng các phương pháp và kiểm tra thí nghiệm để xác định mức độ gây hại của chúng tới con người và môi trường. Kết quả này sẽ được sử dụng trong quy trình phê duyệt và quản lý an toàn của các chất hoá học.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "độc tính bán trường diễn":

NGHIÊN CỨU ĐỘC TÍNH CẤP VÀ BÁN TRƯỜNG DIỄN CỦA INDIRUBIN-3'-OXIME VÀ VIÊN NANG VINDOXIM HỖ TRỢ ĐIỀU TRỊ BỆNH UNG THƯ
Indirubin-3'-oxime, là sản phẩm bán tổng hợp trực tiếp từ bột chàm giàu indirubin, có khả năng ức chế enzym cyclin-dependent kinases (CDKs) và gây ra quá trình tự chết của một số dòng tế bào ung thư ở người. Từ indirubin-3'-oxime, thực phẩm chức năng VINDOXIM đã được bào chế để loại bỏ các tác nhân gây ung thư, thúc đẩy sự tự chết của các tế bào ung thư và sử dụng cho việc phòng và hỗ trợ điều trị bệnh ung thư. Nghiên cứu độc tính cấp của indirubin-3'-oxim trên chuột nhắt trắng chủng Swiss qua đường uống đã xác định hoạt chất indirubin-3'-oxime gần như không độc với LD50 liều gây chết 50 % chuột thí nghiệm) có giá trị > 12,0 g mẫu thử/kg chuột. Liều dưới liều chết (LD0) được xác định là 10,0 g/kg chuột. Thử độc tính bán trường diễn, sau khi cho thỏ uống hỗn dịch thuốc VINDOXIM liên tục trong 28 ngày với mức liều 7,2 mg hoạt chất (0,036 viên)/kg thỏ/ngày và 21,6 mg (0,108 viên)/kg thỏ/ngày, toàn bộ thỏ thí nghiệm ở nhóm chứng và 2 nhóm thử tăng cân đều và không có sự khác biệt về mức độ gia tăng trọng lượng, về chỉ sinh hóa và huyết học thỏ giữa nhóm chứng và các nhóm uống thuốc (p > 0,05). Trong 4 tuần liên tục, tất cả các chỉ số theo dõi về tình trạng chung, chức năng tạo máu, chức năng gan, chức năng thận đều nằm trong giới hạn bình thường và không có sự khác biệt rõ rệt so với nhóm chứng. Quan sát đại thể, không nhận thấy sự bất thường về màu sắc và hình dạng bên ngoài của các tổ chức tim, gan, thận, phổi và hệ tiêu hóa giữa các thỏ nhóm chứng và 2 nhóm thử sau thí nghiệm.
Nghiên cứu độc tính cấp và bán trường diễn của cao lỏng Actiso trên thực nghiệm
Tạp chí Y Dược cổ truyền Việt Nam - Tập 37 Số 4 - Trang 4-10 - 2021
Nghiên cứu được tiến hành nhằm đánh giá độc tính bán trường diễn của cao lỏng Actiso theo đường uống trên động vật thực nghiệm. Nghiên cứu độc tính bán trường diễn theo hướng dẫn của WHO, chuột cống được uống liên tục cao lỏng Actiso với mức liều 0,2 g/kg/ngày và 1,0 g/kg/ngày trong vòng 4 tuần liên tục. Kết quả cho thấy cao lỏng Actiso khi dùng đường uống liều 0,2 g/kg/ngày và 1,0 g/kg/ngày liên tục trong 4 tuần không ảnh hưởng đến tình trạng chung, thể trọng, các chỉ số huyết học, chức năng gan, thận và mô bệnh học gan, thận trên chuột cống trắng. Như vậy cao lỏng Actiso không gây độc tính bán trường diễn trên động vật thực nghiệm.
#Actiso #bán trường diễn #động vật thực nghiệm.
13. Nghiên cứu độc tính cấp và bán trường diễn của viên nang cứng An Phụ Khang Plus trên động vật thực nghiệm
Nghiên cứu độc tính cấp được đánh giá trên chuột nhắt trắng theo hướng dẫn của WHO và xác định LD50 theo phương pháp Litchfield - Wilcoxon. Độc tính bán trường diễn của viên nang cứng An Phụ Khang Plus (APKP) tiến hành trên chuột cống trắng, trong đó, chuột được chia làm 3 lô: chứng sinh học, lô uống APKP liều 0,745 g/kg/ngày và 2,235 g/kg/ngày trong vòng 4 tuần. Chuột được lấy máu ở các thời điểm trước nghiên cứu, sau 2 tuần và 4 tuần nghiên cứu để đánh giá chức năng tạo máu. Giải phẫu bệnh gan, thận được đánh giá tại thời điểm kết thúc nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy: Chuột nhắt trắng được uống đến liều tối đa 38,8 g/kg không có biểu hiện độc tính cấp, chưa xác định được LD50 của APKP. Nghiên cứu độc tính bán tr­ường diễn ở 2 mức liều không có sự thay đổi về tình trạng chung, chức năng tạo máu, chức năng và cấu trúc thận trên chuột cống trong thời gian nghiên cứu. Tuy nhiên, thay đổi mô bệnh học gan được quan sát ở liều cao, cần có nghiên cứu sâu hơn để đánh giá ảnh hưởng của APKP trên mô bệnh học của gan.
#An Phụ Khang Plus #độc tính cấp #độc tính bán trường diễn
Nghiên cứu độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của viên nang phong thấp 3T
Phong thấp 3T gồm 8 vị thuốc đạt tiêu chuẩn dược điển Việt Nam IV, được bào chế dưới dạng viên nang đạt tiêu chuẩn cơ sở để điều trị đau vai gáy do thoái hóa cột sống cổ. Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá độc tính cấp trên chuột nhắt trắng và sự ảnh hưởng đến thể trạng, cân nặng, chức năng hệ thống tạo máu chuột cống thực nghiệm. Kết quả Viên nang Phong thấp 3T không có độc tính cấp theo đường uống và chưa chưa xác định được LD50 trên chuột nhắt trắng. Viên nang Phong thấp 3T không ảnh hưởng đến thể trạng chung cũng như các thông số đánh giá chức năng tạo máu của chuột cống trắng khi cho chuột uống liều 1,05g/kg/ngày và liều 3,15g/kg/ngày liên tục trong 4 tuần.
#Phong thấp 3T #độc tính cấp #vai gáy
ĐÁNH GIÁ ĐỘC TÍNH BÁN TRƯỜNG DIỄN TRÊN CHỨC NĂNG GAN, THẬN CỦA VIÊN NANG CỨNG FUCOLEN SAU BÀO CHẾ TRÊN ĐỘNG VẬT THỰC NGHIỆM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Mục tiêu: Đánh giá độc tính bán trường diễn của viên nang cứng Fucolen trên hệ tạo huyết trên chuột nhắt trắng chủng Wistar. Đối tượng & Phương pháp: nghiên cứu thực nghiệm trên 30 chuột trắng chủng Wistar. Kết quả: Sau khi sử dụng thuốc 4 tuần, 8 tuần, 12 tuần thì sự thay đổi về các chỉ số chức năng gan (AST, ALT) và creatinin trong máu chuột sử dụng thuốc không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với lô chuột ở nhóm chứng (p>0,05). Không có sự thay đổi hình ảnh vi thể của gan, thận giữa chuột nhóm chứng và nhóm thực nghiệm. Kết luận: Viên nang cứng Fucolen liều tương đương liều dự kiến lâm sàng (0,48 viên/kg/ngày uống liên tục 12 tuần không gây độc tính bán trường diễn trên gan và thận trên chuột thực nghiệm.
#Độc tính bán trường diễn #Gan #Thận #Fucolen
ĐÁNH GIÁ ĐỘC TÍNH CẤP VÀ ĐỘC TÍNH BÁN TRƯỜNG DIỄN CỦA CHẾ PHẨM SÂM THẢO CAN KHƯƠNG THANG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Nghiên cứu độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của chế phẩm sâm thảo can khương thang (STCKT) trên động vật thực nghiệm. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu được thực hiện trên giống chuột nhắt trắng Swiss albino. Đánh giá độc tính cấp và độc tính bán trường diễn của chế phẩm STCKT theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Kết quả: Ở liều tối đa dùng theo đường uống trên chuột nhắt là 200 ml/kg không thể hiện độc tính cấp trên động vật thử nghiệm sau 14 ngày theo dõi. Cân nặng của chuột, chức năng tạo máu, chức năng gan, thận và các cơ quan khác nhìn chung không bị ảnh hưởng khi sử dụng liều 4 và 12 ml/kg trong 14 và 28 ngày. Kết luận: Chế phẩm STCKT trên mô hình thử nghiệm không gây độc cho chuột nhắt trắng. Tuy nhiên, cần cẩn trọng với khả năng giảm số lượng tiểu cầu trên chuột đực.
#sâm thảo can khương thang #độc tính cấp #độc tính bán trường diễn
Tổng số: 37   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4